Đồng minh khác thường của Việt Nam tại Biển Đông

509 (lượt xem) |

TỔNG QUÁT

Tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN mở ra từ ngày 31/7/2019 tại Bangkok, Việt Nam và Hoa Kỳ có lẽ là hai nước có tiếng nói mạnh nhất để phản đối vụ Trung Quốc cho tàu vào khảo sát và quấy phá công việc khai thác dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính, ở phía nam Biển Đông. Giới quan sát đặc biệt chú ý là lần này, Hà Nội đã có lập trường kiên quyết rõ nét để chống lại Bắc Kinh, sau hai lần liên tiếp lùi bước vào năm 2017 rồi 2018 trong vụ Repsol. Đặc biệt trong lần này, Hà Nội đã có hậu thuẫn ngầm của Matxcova, thông qua tập đoàn dầu khí Rosneft, đối tác của Việt Nam trong việc khai thác các mỏ dầu khí tại khu vực Bãi Tư Chính. Trong cuộc họp với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Bangkok, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono tại Bangkok nói rằng tình hình “đã xấu đi mỗi năm” và Nhật Bản chia sẻ những lo lắng của ASEAN.

Liên doanh Rosneft-Vietnam

DIỄN BIẾN SAU HỘI NGHỊ CẤP NGOẠI TRƯỞNG ASEAN Ở BANGKOK

  • Tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Asper hôm 4/8 phát biểu trong chuyến viếng thăm Australia lần đầu, chỉ trích hành động quân sự hóa cùng chính sách kinh tế của Trung Quốc: “Chúng tôi tin rằng không quốc gia nào có quyền thống trị khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Mỹ đang hợp tác cùng các đồng minh và đối tác để giải quyết những vấn đề an ninh bức thiết hiện nay”.
  • Theo tài liệu của bộ Ngoại Giao Việt Nam, số lượng tàu Trung Quốc tham gia gây hấn vào lúc cao nhất lên đến 35 chiếc. Vào ngày 3/8, một nguồn tin riêng từ Việt Nam cho biết tổng số tàu Trung Quốc đủ loại đã vọt lên khoảng 80 chiếc.
  • Báo chí chính thống CSVN đưa tin đại diện cấp cao Federica Mogherini thay mặt 28 nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu (EU) ký thỏa hiệp quốc phòng với Việt Nam hôm Thứ Hai 5/8/2019 tại Hà Nội. Tin tức cho hay bà Federica Mogherini, Đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh, đồng thời cũng là Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Âu ký với phía Việt Nam bản Hiệp định khung về tham gia (Framework Participation Agreement – FPA) mà từ đó Việt Nam có thể trở thành nước đối tác góp phần vào các chiến dịch và sứ mạng căn cứ trên Chính Sách Chung về An Ninh và Quốc Phòng của Liên Âu. Đây là một chiến lược phối hợp các hoạt động quốc phòng và tình báo của Liên Âu và cũng là thỏa hiệp đầu tiên mà UE ký với một nước Đông Nam Á. Bà Federica Mogherini đã có cuộc hội đàm với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh và tuyên bố: “Quý vị có thể trông cậy vào Liên hiệp châu Âu để không những hướng tới việc giảm căng thẳng, mà còn, trước tiên, là bảo vệ việc tôn trọng luật pháp quốc tế một cách đầy đủ”.
  • Tàu Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), Reuters cho hay hôm 7/8. Trên Twitter, ông Ryan Martinson thuộc Viện Nghiên cứu Hàng Hải Trung Quốc, viết lúc 9 PM hôm 7/8: “Hải Dương Địa chất 8 đã hoàn thành cuộc khảo sát. Bây giờ nó đang ở Đá Chữ Thập.” Ngày 13/8, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 đã quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính, chưa đầy một tuần kể từ khi tàu này rời khỏi khu vực sau một cuộc đối đầu căng thẳng kéo dài một tháng giữa hai nước, Reuters trích dẫn dữ liệu theo dõi cho biết. Động thái mới nhất đã được các chuyên gia dự đoán ngay từ lúc tàu Hải Dương 8 rời khỏi Bãi Tư Chính và di chuyển đến Bãi Chữ Thập, nơi tranh chấp chủ quyền với Philippines và cũng là nơi Trung Quốc đã xây dựng thành đảo nhân tạo.

QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM

  • Hôm 31/7/2019, tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN ở Bangkok, Việt Nam đã công khai lên tiếng tố cáo các hành động xâm lấn của Trung Quốc gần đây tại Bãi Tư Chính, trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, các đồng minh Đông Nam Á của Việt Nam đã có những phản ứng dè dặt. Theo hãng tin Anh Reuters, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị hôm 1/08/2019 đã nhắc nhở Việt Nam rằng không nên để cho các vấn đề trên biển xen vào vấn đề quan hệ song phương nhưng ông ta không bao giờ nói ra rằng Trung Quốc luôn luôn lấn ép Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền.
  • Cuộc biểu tình đầu tiên liên quan đến đối đầu Việt-Trung ở Bãi Tư Chính diễn ra vào sáng ngày 6/8 trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội. Tuy chỉ diễn ra ở quy mô nhỏ và sớm bị giải tán, nhưng đây rất có thể sẽ là khởi đầu cho những cuộc biểu tình sắp tới của người dân, nhằm thể hiện thái độ “căm phẫn” trước sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, một cựu quan chức nói với BBC Tiếng Việt.

Cuộc biểu tình ngày 6/8 tại Hà Nội

QUAN ĐIỂM CỦA HOA KỲ

  • Trong lá thư đề ngày 29/7/2019 các thượng nghị sĩ: Bob Menendez (Đảng Dân chủ, bang New Jersey), Ed Markey (Dân chủ, Massachusetts), Brian Schatz (Dân chủ, Hawaii) và Patrick Leahy (Dân chủ, Vermont) đã gửi đến Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trước khi ông lên đường đi Bangkok (Thái Lan). Đầu thư, nhóm thượng nghị sĩ này khẳng định mục đích của thông điệp là muốn nhấn mạnh rằng hành vi gây hấn và bành trướng của Trung Quốc là ưu tiên số 1 trong các cuộc thảo luận tại Diễn đàn Khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ARF), vốn sẽ tổ chức từ ngày 2/8 tới tại Bangkok. Nhóm nghị sĩ đặc biệt nhấn mạnh rằng Trung Quốc đã có “hành vi quyết đoán trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước tranh chấp khác”. Đoạn này cụ thể như sau: “Hành vi quyết đoán của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước tranh chấp khác, động thái của họ trong việc cải tạo và quân sự hóa đảo nhân tạo như một nền tảng để cưỡng ép, quyết định của họ trong việc ngó lơ phán quyết của Tòa trọng tài Thường trực, và nỗ lực của họ trong việc thúc ép các nước ASEAN đàm phán một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông đầy hạn chế, tất cả đều xứng đáng được đối lại là sự chú ý, khả năng tiên phong và hợp tác lớn hơn từ phía Mỹ đối với đối tác và đồng minh của chúng ta”.
  • Ngoại trưởng Pompeo sau buổi họp với Ngoại trưởng Vương Nghị đã gọi cuộc gặp gỡ là “cơ hội trao đổi quan điểm sâu sắc”, nhấn mạnh rằng Mỹ không ép buộc các nước Đông Nam Á phải lựa chọn giữa hai cường quốc này. “Việc chúng tôi tham gia vào những vấn đề trong khu vực chưa từng và sẽ không bao giờ là trò chơi nhằm tìm ra kẻ thắng, người thua”, ông Pompeo khẳng định. “Mối quan tâm của chúng tôi chỉ đơn thuần là ngẫu nhiên trùng khớp với mối quan tâm của các vị, và chúng ta đều hướng tới lợi ích chung”. Trong một dòng tweet trước đó, ông Pompeo đã viết rằng “nếu đó là việc có lợi cho Mỹ, thì chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Trung Quốc”.
  • Hôm 7/8, tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan và nhóm tàu tác chiến thăm cảng Manila, Philippines, sau khi thực hiện tuần tra ở Biển Đông, theo trang Naval Today. Trang này trích lời ông Sung Kim, Đại sứ Hoa Kỳ tại Philippines, nói: “Chuyến thăm này minh chứng tuyệt vời về tình hữu nghị, quan hệ đối tác và liên minh mạnh mẽ của chúng tôi với Philippines, cũng như cho thấy cam kết chung của chúng tôi đối với một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”.

QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC

  • Hôm 13/7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã không xác nhận việc vụ đối đầu tại bãi Tư Chính, nhưng ông nói Trung Quốc quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông, tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng cho biết thêm. “Chúng tôi cũng cam kết quản lý sự khác biệt của mình thông qua các cuộc đàm phán với các quốc gia liên quan,” người phát ngôn này nói. Trong khi đó, Chủ tịch Tập Cận Bình nói với Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến thăm của bà tới Trung Quốc tuần này rằng “hai nước nên bảo vệ hòa bình và ổn định hàng hải bằng các hành động cụ thể”.
  • Một quan chức ngoại giao cao cấp của Trung Quốc nói nước này cam kết tuân thủ luật quốc tế và tích cực cùng khối ASEAN xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, Reuters tường thuật. Tuyên bố hoà dịu này của Đại sứ Triệu Kiếm Hoa từ Manila được đưa ra vào lúc đang diễn ra Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Bangkok, 29/7-3/8. Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, ông Triệu Kiếm Hoa, hôm thứ Ba 30/7 nói rằng Trung Quốc cam kết tuân thủ luật quốc tế và “làm việc rất tích cực” cùng khối ASEAN để xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông trong vòng ba năm. Ông nói thêm: “Bất kể là có trở nên hùng mạnh đến đâu thì Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm cách chiếm quyền lãnh đạo, cũng không bao giờ thiết lập các phạm vi gây ảnh hưởng”.
  • Trung Quốc mãi đến hôm thứ Hai 29/7 mới cho rằng bình luận của các quan chức Hoa Kỳ về vai trò của Trung Quốc tại Biển Đông là “vu khống” và “không ai tin” những gì giới chức Mỹ nói về tình hình ở Biển Đông. Trong cuộc họp báo ngày 31/7, Ngoại trưởng Vương Nghị được cho là đã “dằn mặt” Mỹ, khi một phóng viên hỏi ông này về việc Mỹ và các quốc gia ngoài châu Á tham gia trong những vấn đề liên quan đến Biển Đông. Ông Vương nói: “Chúng tôi cho rằng các nước ngoài khu vực không nên cố tình thổi phồng những khác biệt hay tranh chấp từ quá khứ. Các quốc gia ngoài khu vực cũng không nên lợi dụng những khác biệt này để gieo rắc ngờ vực giữa Trung Quốc và các quốc gia ASEAN.” Tuy vậy, Ngoại trưởng Trung Quốc vẫn hy vọng sẽ có một cuộc đối thoại “thẳng thắn và mang tính xây dựng” với Mỹ, và có vẻ nhà ngoại giao này đã thể hiện điều đó khi có thái độ tương đối hòa dịu trong cuộc gặp ông Pompeo ngày hôm nay.

ĐỒNG MINH MỚI CỦA VIỆT NAM TẠI BIỂN ĐÔNG

Một trong những nguyên do giải thích thái độ cứng rắn của Việt Nam vừa được nhà phân tích Bennett Mauray của tạp chí Mỹ Foreign Policy nêu bật trong bài viết: “Đồng minh kỳ lạ của Việt Nam trong cuộc đọ sức với Trung Quốc – Vietnam’s Strange Ally in Its Fight with China”, công bố hôm 1/8/2019. Đó là lần này, Hà Nội đã có hậu thuẫn ngầm của Matxcova, thông qua tập đoàn dầu khí Nga Rosneft, đối tác của Việt Nam trong việc khai thác các mỏ dầu khí tại khu vực Bãi Tư Chính.

Rosneft tại lô 06-1 tại Thềm lục địa Việt Nam

Trái với những gì đã xẩy ra hai năm trước đây, khi phải âm thầm hủy bỏ hai dự án liên doanh với tập đoàn năng lượng Tây Ban Nha Repsol dưới áp lực của Trung Quốc, Việt Nam hiện đang yêu cầu Trung Quốc cho rút tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và nhóm tàu hộ tống ra khỏi vùng mỏ dầu khí mà Việt Nam đang hợp tác khai thác. Đối tác lần này của Hà Nội chính là một người bạn cũ, đồng thời là cổ đông chủ chốt trong liên doanh: Chính phủ Nga. Vào năm 2017 và 2018, Việt Nam đã đình chỉ việc khoan dò ở hai lô dầu khí 136/03 và 07/03 dưới sức ép của Trung Quốc. Lý do hủy bỏ không hề được công bố, nhưng các thông tin từ Hà Nội và giới công nghiệp dầu hỏa cho rằng Trung Quốc đã đe dọa đánh chiếm các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, một nơi từng diễn ra những trận hải chiến dữ dội giữa hai bên trong những năm 1980.

Theo Foreign Policy, Việt Nam khi ấy đã cố gắng cứu vãn tình hình an ninh của mình trong bối cảnh đã xuất hiện nhiều hoài nghi về quyết tâm can dự vào khu vực của chính quyền Trump, trong lúc mà Philippines, nước trước đó đi đầu trong việc chống đường chín đoạn của Trung Quốc, lại trở nên chập chờn, sau khi ông Rodrigo Duterte được bầu lên làm tổng thống. Một lý do khác, theo tạp chí Mỹ, là tập đoàn Tây Ban Nha Repsol chỉ là một công ty tư nhân của một cường quốc thứ yếu, không có thực lực địa chính trị để hỗ trợ Việt Nam. Bối cảnh lần này hoàn toàn khác. Đối tác của Việt Nam tại Bãi Tư Chính là Rosneft với chủ nhân là chính phủ Nga, có khả năng vận dụng uy lực để bảo vệ nguồn cung cấp tài chánh cho nhà nước Nga.

Đối với Foreign Policy, chính sách của điện Kremlin về Biển Đông chưa bao giờ rõ ràng cụ thể. Về mặt chính thức, Nga giữ thái độ trung lập, nhưng lại thường ngầm ủng hộ Trung Quốc bằng cách công khai khẳng định rằng các nước không có yêu sách tại Biển Đông không nên xen vào cuộc tranh chấp. Matxcova cũng chia sẻ quan điểm chống các định chế phương Tây của Trung Quốc. Tuy nhiên, theo tạp chí Mỹ, nếu những lời hoa mỹ của điện Kremlin có thể hữu ích cho Trung Quốc, thì những hành động của Nga trên biển lại không có lợi lắm cho Bắc Kinh. Trong vụ Bãi Tư Chính, cho dù là về mặt chính thức, Nga có thể là sẽ không tuyên bố đứng về phía Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp Nga lại là các công ty duy nhất hợp tác với Việt Nam để khai thác dầu khí bên trong đường chín đoạn.

Đây không phải là một sự thách thức nhỏ, vào lúc mà dân quân biển Trung Quốc tấn công thô bạo vào ngư dân nước ngoài, trong lúc quân đội Trung Quốc thì tìm cách đánh bật Việt Nam ra khỏi các vùng mỏ dầu khí. Nhìn dưới khía cạnh đó, việc Nga hợp tác với Việt Nam là một hành động khiêu khích Trung Quốc nghiêm trọng (mặc dù ở mức độ thấp), kể cả khi điện Kremlin cẩn thận tránh thu hút sự chú ý đến việc đó. Dĩ nhiên không ai nghĩ là Nga sẽ điều động cả một hạm đội từ Vladivostok xuống Biển Đông để đối đầu với Hải Quân Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh sẽ bị mất mát nhiều nếu quá mạnh tay trước Rosneft.

Sáng kiến Một Vành Đai Một Con Đường của Trung Quốc nhằm nối liền Âu-Á, sẽ phải thận trọng khi đi qua các vùng mà Nga coi là sân sau của mình. Theo đánh giá của Foreign Policy, việc duy trì hòa khí giữa hai cường quốc cần đến sự có đi có lại và nhu cầu giải quyết êm thấm những tranh chấp tất yếu nảy sinh. Do đó, việc khoan dầu chung giữa Nga và Việt Nam ở ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam gần như chắc chắn nằm trên bàn đàm phán. Về phần Trung Quốc, hiện đang bị cô lập do cuộc chiến thương mại với Mỹ, không thể cùng một lúc chống lại 2 nước tại Biển Đông. Dù lợi ích của Nga không phải là đứng về phía Mỹ để tố cáo chủ nghĩa bành trướng trên biển của Trung Quốc, nhưng điện Kremlin cũng không mấy hứng thú trước khả năng Bắc Kinh giành được quyền kiểm soát Biển Đông, tuyến hàng hải trị giá hàng ngàn tỷ đô la nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.

VAI TRÒ CỦA CÁC ĐỒNG MINH HOA KỲ

Mặc dù các cường quốc trên thế giới đều ý thức những nguy cơ đến từ sức mạnh của Trung Quốc trên Biển Đông và đều có những lợi ích chiến lược đối với vùng biển này, sự can dự của họ cùng với Mỹ để thách thức Trung Quốc có những hạn chế nhất định.

Trong khuôn khổ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Mở và Tự do (FOIP) mà Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hồi đầu tháng Sáu, Mỹ nhấn mạnh đến sự hợp tác của bốn cường quốc trong khu vực là Mỹ-Nhật-Ấn-Úc (còn gọi là Bộ Tứ) và kêu gọi sự can dự mạnh mẽ hơn từ các nước châu Âu, nhất là Anh và Pháp, để đảm bảo cấu trúc an ninh trong khu vực trước mối đe dọa từ Trung Quốc.

Nhật Bản: Nhật là nước “rất dễ bị tổn thương” trước những diễn biến tiêu cực trên Biển Đông, Toshihiro Nakayama, giáo sư về quản lý chính sách ở Đại học Keio, khẳng định tại hội thảo. “Nhật Bản phụ thuộc hoàn toàn vào giao thương … Hơn 90% giao thương của Nhật Bản lệ thuộc vào vận chuyển bằng đường biển,” ông giải thích. “Do đó, vùng Biển Đông đặc biệt là huyết mạch hàng hải hết sức quan trọng đối với Nhật.” “Nếu con đường hàng hải đó bị chặn hoặc nếu một quốc gia đơn lẻ nào đó làm chủ vùng biển đó thì Nhật sẽ rơi vào tình thế dễ bị tổn thương.” Do đó, ông cho biết ý đồ của Trung Quốc muốn biển Biển Đông thành vùng biển của riêng họ là “quan ngại lớn của Nhật”.

Trong cuộc họp với Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono tại Bangkok, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh bày tỏ “mối quan ngại sâu sắc” của ASEAN gồm 10 thành viên về tình hình Biển Đông, theo một quan chức Bộ Ngoại giao Nhật Bản. Trong khi đó, vị quan chức này dẫn lời Ngoại trưởng Kono nói rằng tình hình “đã xấu đi mỗi năm” và Nhật Bản chia sẻ những lo lắng của ASEAN.

Cho đến nay, mặc dù Tokyo không tham gia vào các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) trên Biển Đông do Mỹ khởi xướng do những tranh cãi trong nước, nhưng nước này tham gia vào nhiều cuộc tập trận trong khu vực và công khai ủng hộ các chiến dịch FONOP của Mỹ, ông Nakayama nói. Tuy nhiên, ông cho biết ở Nhật hiện đang có cảm nhận rằng thế cân bằng chiến lược ở Biển Đông đang “nghiêng về hướng có lợi cho Trung Quốc” và lo lắng về cam kết của Mỹ đối với khu vực dưới thời Tổng thống Donald Trump với phương châm “Nước Mỹ trên hết”. “Chúng tôi nhìn thấy tham vọng của Trung Quốc để thay thế Mỹ hay gạt Mỹ ra rìa trong vai trò lãnh đạo ở châu Á-Thái Bình Dương,” ông nói. Mặc dù không ai nói về sự thoái lui hoàn toàn của Mỹ khỏi khu vực nhưng nếu có những dấu hiệu mờ nhạt về việc này thì nó sẽ gây tác động tiêu cực cho khu vực, ông nói thêm. “Chỉ cần một dấu hiệu nhỏ về sự thoái lui của Mỹ sẽ tạo ra thay đổi lớn trong cán cân quyền lực,” ông giải thích. Ông cho rằng Tổng thống Trump nên quan tâm đến cảm nhận của khu vực về cam kết của Mỹ, về sự hiện diện lâu dài của Mỹ ở khu vực. Đó là điều quan trọng hơn các chiến dịch FONOP hay triển khai vũ khí gì, nhất là trong bối cảnh Biển Đông. Các nước lớn trong vùng như Nhật bản, Ấn Độ đang đa dạng hóa các lợi ích “do sự quan tâm của Mỹ đến khu vực ngày càng suy giảm còn Trung Quốc thì hung hăng”.

Ấn Độ: Về phần Ấn Độ, một quốc gia nằm trong ‘Bộ Tứ’ trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, bà Pooja Bhatt, nghiên cứu sinh tiến sỹ đến từ Đại học Jawaharlal Nehru, nói rằng lập trường của New Delhi đối với Biển Đông là “hòa bình, ổn định và an ninh dựa trên luật pháp và chuẩn mực được quốc tế chấp nhận” cũng như “ủng hộ tự do hàng hải, tự do hàng không và thương mại không bị gián đoạn”.

Bà Bhatt chỉ ra rằng Ấn Độ có nhiều lợi ích ở Biển Đông và cũng sẽ “là một nạn nhân” nếu vùng biển này xảy ra bất ổn. Quyền lợi đầu tiên là lợi ích năng lượng khi các tập đoàn dầu khí của Ấn Độ trong vòng 10 năm qua đã tham gia thăm dò hai lô trong vùng biển của Việt Nam. Thứ hai là bảo vệ con đường giao thương của Ấn Độ với hơn một nửa kim ngạch ngoại thương của nước này phải thông qua con đường Biển Đông. Thứ ba là Ấn Độ muốn có một cấu trúc khu vực mang tính hội nhập, mở và tự do vốn cho phép tất cả các nước có lợi ích đều được tham gia. Thứ tư, Ấn Độ muốn cùng các nước trong khu vực xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng và các dự án kết nối các nước trên nguyên tắc “minh bạch và bình đẳng”.

Trong khuôn khổ chính sách đối ngoại ‘Hướng Đông’, Ấn Độ trong những năm qua đã tích cực tăng cường sự hiện diện về kinh tế, chính trị và quân sự với các nước xung quanh Biển Đông, đặc biệt là với Việt Nam – nước mà Ấn Độ xem là then chốt trong chiến lược ‘Hướng Đông’. Chính sách ‘Hướng Đông’ này và lập trường về Biển Đông của Ấn Độ xuất phát từ khuôn khổ mối quan hệ ‘yêu và ghét’ của Ấn Độ đối với Trung Quốc, bà Bhatt cho biết. “Mặc dù người Ấn Độ tự nhiên không thích các hành động của Trung Quốc vì những lý do lịch sử như chiến tranh và tranh chấp biên giới giữa hai nước, có một số nhân tố mà Ấn Độ phải xem xét về ý định của Ấn Độ có sẵn sàng đi xa hơn trong việc thách thức Trung Quốc hay không. Trước hết năng lực của Ấn Độ hiện nay chưa đến mức có thể tham gia vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Thứ ba là lợi ích của chính Ấn Độ trong giao thương với Trung Quốc.

Bà Nehru cũng lưu ý lập trường của các nước Đông Nam Á là “không muốn có thêm cấu trúc an ninh khu vực mới (kiểu như Bộ Tứ)’ mà thay vào đó ASEAN muốn củng cố các cấu trúc an ninh có sẵn để có thêm các chức năng mới”. Bà khuyên rằng Mỹ không xem Ấn Độ hay các nước khác trong khu vực chỉ đơn thuần là đối tác an ninh hay quân sự mà cần phải chú trọng mối quan hệ đối tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng như Trung Quốc đã làm với các dự án RCEP (Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực) và Ý tưởng Vành đai-Con đường (BRI). “Tôi cho rằng các nước trong khu vực cảm thấy rất bất an khi trở thành đồng minh quân sự (với Mỹ),” bà nói. Tổng thống Mỹ Donald Trump ngay khi lên nắm quyền đã từ bỏ Hiệp ước Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) vốn nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế của Mỹ với các nước trong khu vực trước sức ảnh hưởng càng lớn của Trung Quốc.

Úc Đại Lợi: Cũng giống như các cường quốc bên ngoài khác, Canberra cũng có lợi ích trong việc duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông và đây là ưu tiên trước hết của nước này, bà Bec Strating, giảng viên về Chính trị thuộc Đại học La Trobe, cho biết. Cũng giống như Ấn Độ và Nhật Bản, Úc có khối lượng hàng hóa lớn được giao thương qua con đường Biển Đông với gần hai phần ba. Tuy nhiên, Canberra không lo lắng về việc con đường giao thương này bị gián đoạn vì phần lớn hàng hóa đó đi đến hay đi từ Trung Quốc. Đối với người dân Úc, họ biết những gì diễn ra ở Biển Đông nhưng họ không xem đó ảnh hưởng đến lợi ích sát sườn của Úc vốn được cho là giao thương và thịnh vượng, bà nói và cho biết nhiều người ở Úc “có quan điểm rất tích cực” về quan hệ với Trung Quốc. Bà cho rằng quan hệ giao thương với Trung Quốc là rất quan trọng để giúp nền kinh tế Úc mạnh mẽ và duy trì sự thịnh vượng.

Tuy nhiên, về lâu dài thì Úc có lợi ích trong việc ‘bảo đảm quyền tự do hàng hải’. “Tôi cho rằng lợi ích then chốt của Úc nằm ở việc duy trì trật tự thế giới dựa trên luật lệ,” bà nói. “Vấn đề là liệu sự xói mòn luật lệ về biển trên Biển Đông sẽ đe dọa tính hợp pháp của toàn bộ UNCLOS (Công ước Quốc tế về Luật Biển) hay không.” Úc có lợi ích lớn trong việc bảo vệ tính toàn vẹn của UNCLOS vì nước này được hưởng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng đến 10 triệu km², lớn thứ ba thế giới, theo quy định của UNCLOS.

Cho nên việc Canberra bảo vệ trật tự dựa trên luật pháp, bảo vệ UNCLOS, không chỉ đơn thuần là bảo vệ cho hiện trạng khu vực dưới sự lãnh đạo của Mỹ mà còn là bảo vệ những lợi ích cốt lõi của Úc liên quan đến chủ quyền và tài nguyên, bà giải thích.

Do lịch sử an ninh vốn gắn chặt Úc với các cường quốc bên ngoài, trước hết là Anh và giờ là Mỹ, bà Strating cho rằng Úc vẫn là một đồng minh gắn bó với Mỹ và đã có lập trường mạnh mẽ trên các vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Bà đưa ra bằng chứng là khác với Ấn Độ, Úc rất sốt sắng với ý tưởng về “Bộ Tứ”. Dù vậy, trên một số vấn đề, Canberra “vẫn không sẵn sàng gây sức ép lên Bắc Kinh”.

Theo báo Canberra Times ngày 3/8/2019, trong một tuyên bố chung sau cuộc họp tại Thái Lan ngày 01/08, Ngoại trưởng Úc Marise Payne, cùng với đồng nhiệm Mỹ Mike Pompeo và Nhật Taro Kono, đã bày tỏ “mối quan ngại nghiêm trọng” trước “những thông tin đáng tin cậy” về những hoạt động cản trở các dự án dầu khí trên Biển Đông, ám chỉ việc các tàu của Trung Quốc sách nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính, gần quần đảo Trường Sa.

Châu Âu: Đối với các nước châu Âu, vấn đề Biển Đông không quan hệ lắm đối với lợi ích sát sườn của họ trừ một vài nước như Anh, Pháp, nhưng cách hành xử ngày càng quả quyết nói chung của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã khiến châu Âu quan ngại, bà Sarah Kirchberger đến từ Viện Chính sách An ninh thuộc Đại học Kiel-Đức Quốc, cho biết. Trong vòng hai năm qua, châu Âu đã có “sự thay đổi đáng kể’ trong thái độ đối với Trung Quốc mà tất cả đều xuất phát từ cách hành xử ngày càng chuyên chế và quả quyết của Bắc Kinh. Mặc dù cộng đồng doanh nghiệp vẫn nhìn thấy nhiều cơ hội trong việc hợp tác với Trung Quốc, cộng đồng an ninh đã “cảnh giác hơn nhiều”, bà nói. “Một số người từng chủ trương thỏa hiệp với Trung Quốc đã thật sự thay đổi quan điểm.”

Bà cho biết châu Âu nhìn vào Trung Quốc với nhiều mối quan ngại trong bối cảnh cuộc cạnh tranh quyền lực của nước này với Mỹ. Thứ nhất là quan ngại về cán cân quân sự ngày càng thay đổi giữa Mỹ và Trung Quốc. Thứ hai là Bắc Kinh ngày càng quả quyết trên một loạt phương diện từ quân sự cho đến kinh tế và ngoại giao và cách hành xử này đã ảnh hưởng trực tiếp đến châu Âu. Thứ ba là những dấu hiệu của mối quan hệ chiến lược ngày càng sâu sắc giữa Trung Quốc với Nga mà EU xem là mối đe dọa an ninh chính. Bà Kirchberger dẫn ra các dấu hiệu cho thấy nhiều khả năng Trung Quốc ‘đang xây dựng một hệ thống quân sự chống ngầm mang tính kết nối dưới Biển Đông’ với các thiết bị giám sát mọi động tĩnh và phân tích những dữ liệu thu thập được từ hệ thống phao nổi và vệ tinh trên Biển Đông. Nếu Trung Quốc có thể kiểm soát được hoạt động tàu ngầm của các nước khác, bà nói, thì điều này ‘sẽ thay đổi cán cân quân sự’ ở Biển Đông.

  • Anh-Pháp: Với tư cách là đồng minh với Mỹ trong khối NATO, các nước châu Âu “trước hết phải đảm bảo an ninh cho ngôi nhà của mình để người Mỹ có thể rảnh tay triển khai ở khu vực Thái Bình Dương”, bà nói. Bên cạnh đó, một số nước châu Âu cũng có hành động giương cao ngọn cờ luật pháp quốc tế trên Biển Đông. “Tôi nghĩ Pháp là quốc gia ở vị trí tốt nhất ở châu Âu để tham gia tích cực vào các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) mà họ đã tham gia lâu nay,” bà Kirchberger cho biết. “Họ là quốc gia Thái Bình Dương (Pháp có nhiều lãnh thổ hải ngoại ở vùng biển này) và họ có sự hiện diện quân sự đáng kể ở Thái Bình Dương. Họ có nhiều kinh nghiệm và họ có năng lực hải quân rất tốt.” “Do đó nếu có chiến dịch đa phương nào (của châu Âu) diễn ra thì theo quan điểm của tôi người Pháp sẽ nắm vai trò lãnh đạo bởi vì tàu chiến của họ thường đi qua khu vực này mà mới đây nhất chiến hạm Pháp đã băng qua eo biển Đài Loan trong một hành động bị Bắc Kinh lên án gay gắt.” Việc Trung Quốc hủy bỏ lời mời Pháp tham dự sự kiện kỷ niệm ngày thành lập của Hải quân Trung Quốc ngay sau đó cho thấy “sự thay đổi trong cách hành xử của Trung Quốc chắn chắn đang ảnh hưởng đến các nước châu Âu”.
  • Đức Quốc: Ngoài ra, chiến lược “Made in China 2025” mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra nhằm vươn lên dẫn đầu thế giới trong những ngành công nghệ chủ chốt khiến Berlin đặc biệt quan ngại vì nó thách thức sự thịnh vượng của nước Đức. “Nếu nhìn vào tin tức, trao đổi với các chuyên gia hay thậm chí với cộng đồng doanh nghiệp sẽ thấy mối quan ngại này – ngay cả Hiệp hội các ngành Kỹ nghệ Đức cũng đã ra cảnh báo các doanh nghiệp đừng có quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc,” bà nói thêm. Đức không muốn tham gia vào FONOP vì “không sẵn sàng”, bà nói và đưa ra lý do là hải quân Đức đã đi xuống sau nhiều thập niên bị bỏ bê và ở quốc gia có lịch sử gây chiến như Đức thì bất cứ hành động quân sự nào “cũng sẽ rất mất lòng dân và gần như là tự sát chính trị”. Do đó, hình thức đóng góp tốt nhất của Đức là tham gia vào nỗ lực đa phương của châu Âu hay song phương với các nước Đông Nam Á. Công ty VinFast, với tốc độ xây dựng thần tốc trong vòng 21 tháng để tạo nên “kỳ tích Việt Nam” là nhà máy sản xuất ô tô tại Hải Phòng, đã tạo ra dòng xe hơi có chất lượng rất tốt với sự hợp tác của công ty BMW của Đức.

KẾT LUẬN

Vì tính cách thời sự của biến cố tại Bãi Tư Chính, tác giả quyết định viết 2 bài liên tiếp để phản ảnh đầy đủ những biến cố kể từ khi tàu Hải Dương 1 xâm nhập Bãi Tư Chính ngày 3/7 và rời đi ngày 7/8. Dữ liệu theo dõi tàu cho thấy tàu khảo sát của Trung Quốc đã rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhưng ít nhất hai tàu hải cảnh của họ vẫn ở trong khu vực này. Động thái rút nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đang được các chuyên gia phân tích và đưa ra nhiều nhận định khác nhau, trong đó có cả dự đoán về khả năng “sớm quay trở lại” của nhóm tàu này.

Đối với Việt Nam, gắn ngành công nghiệp dầu khí của mình với hai cường quốc Mỹ-Nga có thể là cơ hội tốt nhất để giữ được một số mỏ dầu khí của mình trên Biển Đông. Đàm phán đơn phương của Việt Nam với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc chẳng khác gì đối thoại với kẻ cướp. Việt Nam chẵng có giải pháp nào hay hơn bằng giải pháp chia sẽ quyền lợi của mình với Hoa Kỳ, Nga Sô cũng như các đồng minh. Dựa vào sự ủng bộ của Matxcova và Washington, có thể không là giải pháp lý tưởng, nhưng Hà Nội không còn nhiều lựa chọn nào khác. Việt Nam đã ký hợp đồng Hoa Kỳ với dự án Cá Voi Xanh của tập đoàn Mỹ Exxon Mobil tại Thềm lục địa miền Trung và gầy đây với Rosneft của Nga tại Thềm lục địa phía Nam.

Sự kiện ở Bãi Tư Chính trên Biển Đông không có gì mới, chỉ là tiếp diễn xu thế chính sách của Trung Quốc từ năm 2005 hay sớm hơn, có thể đoán được là Trung Quốc tiếp tục tìm cách lấn tới cho đến khi Hoa Kỳ-Nga Sô, các cường quốc trong vùng cũng như các quốc gia Đông Nam Á tìm được giải pháp cho nền hòa bình trong khu vực. Việt Nam vẫn còn vài sự lựa chọn khác nhưng quyết định kế tiếp như vấn đề kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế, quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ sẽ còn tùy thuộc tình hình trong thời gian sắp tới và sự tính toán của các bên liên hệ.

 

THAM KHẢO

  1. Bài viết “Đối đầu Việt-Trung tại Bãi Tư Chính 2019” của tác giả ngày 1/8/2019.
  2. Bài viết “Các cường quốc can dự vào Biển Đông đến đâu?” đăng trên đài VOA ngày 1/8/2019.
  3. Bài viết “Ngoại trưởng TQ lên giọng “dằn mặt” Mỹ về Biển Đông: Đừng lợi dụng tình hình để “reo rắc ngờ vực” đăng trên đài SOHA ngày 1/8/2019.
  4. Bài viết “Ngoại trưởng ASEAN ra tuyên bố chung về “sự cố nghiêm trọng” ở Biển Đông” đăng trên đài BBC ngày 1/8/2019.
  5. Bài viết “VN lên án TQ ‘vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền’ tại hội nghị AMM-52 ở Biển Đông” đăng trên đài VOA ngày 1/8/2019.
  6. Bài viết “Đọ sức Việt-Trung tại Biển Đông: Việt Nam có chỗ dựa là Nga?” đăng trên đài RFI ngày 2/8/2019
  7. Bài viết “Hải Dương 8 rút, tiếp theo là gì?” đăng trên đài VOA ngày 7/8/2019.

 

—–