Liên hệ của dòng họ Nguyễn Khoa, dòng họ Nguyễn Văn Tường và Tuy Lý Vương

150 (lượt xem) |

DÒNG HỌ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Với các tài liệu Đại Nam thực lục chính biên và Quốc triều hương khoa lục, người đời sau nhận thấy:

  • Trần Tiễn Thành và Quốc sử quán ghi chép: Vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tại trường thi Thừa Thiên, có một sĩ tử người Quảng Trị, đã thi đỗ tú tài, nhưng bị phát hiện tên trùng với quốc tính. Dưới triều Minh Mạng đã có sắc dụ, ai mang họ Nguyễn mà tên kép có lót chữ Phước (Phúc), thì phải đổi chữ lót ấy. Nhưng sĩ tử họ Nguyễn, tên Phước Tường này lại không chịu đổi. Do đó, người tú tài tân khoa phải bị gạch tên trong danh sách trúng tuyển và đồng thời bị tội đồ (đày nơi gần) một năm.
  • Về kỳ thi hương vào năm Tự Đức thứ 3 (1850), sự cố chữ “Phúc” lại được Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép như sau: “Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương [Triệu Phong – chua thêm], tỉnh Quảng Trị. Nguyên tên là Nguyễn Phước Tường; vì tên trùng với quốc tính, không chịu đổi, nên bị đi đày; hết hạn lại được phục hàm cử nhân”.
  • Năm ấy đức Minh Mạng đi tuần du Quảng Trị, có đem Tường Khánh Công (tức vua Thiệu Trị sau này) đi theo. Ở hành cung Quảng Trị, thấy một người con gái đẹp đi ngang, gọi vào “dùng”, sau đó Công theo phụ hoàng trở lại Huế, không ngờ người con gái ấy có thai và đã sinh ra Nguyễn Văn Tường. Khi sinh còn, bà mẹ đã nói sự thật, nên Nguyễn Văn Tường lấy họ vua để đi thi.

Như vậy, có thể lần thứ hai này, Nguyễn Văn Tường chỉ bị “nhắc lại” án cũ, hồi ông mới 18 tuổi (1842).

Hành trang chính trị (1850–1868): Sau khi đậu cử nhân (1850), dự thi hội, đạt đủ phân số điểm để được bổ nhiệm, ông vào huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và học).

Năm 1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh Quảng Trị được thành lập. Ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Thành Hóa là một nơi xung yếu, “hậu lộ của kinh đô”, chỉ những người được tin cậy mới được giao trọng trách, nhất là trong thời điểm Pháp đã tấn công Đà Nẵng, Gia Định, kích động nội phản ở Bắc Kỳ, sứ bộ Phan Thanh Giản ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Tại đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh.

Năm 1862, ông vào kinh đô Huế giữ chức biện lý Bộ Binh, rồi vào Quảng Nam làm án sát.

Năm 1864, vì cần có vị quan giỏi để điều hành “điểm nóng” mâu thuẫn lương – giáo, ông được chuyển đổi làm phủ doãn kinh đô (tỉnh Thừa Thiên và đạo Quảng Trị). Năm 1866, vì cuộc khởi nghĩa Chày vôi nổ ra trong phạm vi quản lý, ông bị cách chức.

Từ 1866 đến 1868, Nguyễn Văn Tường trở lại huyện Thành Hóa, với chức trách bang biện (tham mưu), tiếp tục xây dựng căn cứ địa Thành Hóa (Tân Sở về sau). Trong hai năm này, ông lại được cấp ấn quan phòng với quyền được trực tiếp tâu lên vua những việc thực thi cụ thể cùng những kiến nghị rộng lớn.

Cũng trong năm Đinh Mão 1867, mặc dù đang ở huyện Thành Hóa, ông vẫn được triều đình và vua Tự Đức điều động vào sứ bộ để vô Gia Định đàm phán với Pháp. Đặc biệt, năm sau, khi sứ bộ dự định đi Paris, ông có viết một bản tấu nổi tiếng, thể hiện tư tưởng “phòng thủ chủ chiến” (thủ để chiến), đồng thời phê phán “ảo tưởng hòa nghị” (tháng 3 âm lịch, Mậu Thìn 1868).

Thương thuyết với nhà Thanh (1868 – 1873): Từ tháng 7 âm lịch, cũng năm Mậu Thìn (1868) ấy, Nguyễn Văn Tường với chức tán tương quân thứ, đứng vào hàng ngũ các quan tướng chỉ huy 3 đạo quân hùng hậu nhất của triều Nguyễn, tiến ra Bắc tiễu phỉ (nội phản, nhất là tàn quân Thái Bình Thiên Quốc toan xưng hùng xưng bá ở biên giới Đại Nam, mặc dù triều đình đã hết sức phủ dụ). Suốt 5 năm trời, ông là một quan văn cầm gươm từng trải trận mạc trên vùng núi phía Bắc, đồng thời là một nhà ngoại giao trong nhiệm vụ thương thuyết, phối hợp tiễu phỉ với quân binh nhà Thanh. Đây cũng là thời đoạn các quân thứ Đại Nam thu phục được Lưu Vĩnh Phúc (chủ tướng quân Cờ Đen) để tiêu diệt quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và để chống Pháp.

Hòa ước Giáp Tuất (1874): Việc tiễu phỉ ở phía Bắc không thể dứt điểm được, Pháp lại dùng thủ đoạn “buôn bán” vũ khí cho bọn phỉ để nuôi dưỡng chúng, nhằm làm tiêu hao sinh lực quân Đại Nam và ý chí của triều đình. Vì vậy, 1873, ông được điều động vào phái bộ, do Lê Tuấn làm chánh sứ, vô Gia Định thương lượng với thực dân Pháp. Cuộc đàm phán kéo dài, bởi triều đình và sứ bộ Đại Nam không chịu nhân nhượng Pháp, mặc dù tại Gia Định lúc ấy, không chỉ có Pháp mà còn có các đại diện của nhiều nước thực dân châu Âu và cố đạo Thiên Chúa giáo (Pháp và Tây Ban Nha). Tướng Pháp Dupré cử Francis Garnier ra quấy nhiễu Bắc Kỳ để làm sức ép. Thành Hà Nội cùng các thành tỉnh lân cận bị thất thủ. Nguyễn Tri Phương tử tiết. Tuy quân của Lưu Vĩnh Phúc chém được Francis Garnier, nhưng tình thế buộc triều đình phải nhân nhượng. Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ thu hồi xong bốn tỉnh, lại phải vào Gia Định để cùng Lê Tuấn, Nguyễn Tăng Doãn tiếp tục bàn định các điều khoản, cuối cùng phải đành chấp nhận Hòa ước Giáp Tuất (1874) và một thương ước khác.

Trọng thần tại triều đình (1874–1883): Năm 1874, ông giữ chức Thượng thư Bộ Hình kiêm Thương bạc đại thần tại kinh đô Huế. Không lâu sau ông được bổ sung vào Viện cơ mật. Từ thời điểm này, Nguyễn Văn Tường là một trọng thần tại triều. Chức vụ ông giữ lâu nhất là Thượng thư Bộ Hộ, quản lý Thương bạc viện (cơ quan ngoại giao và ngoại thương). Ông còn là người có công cải cách thuế ruộng đất, để thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài về chiều sâu, thiên về tầng lớp nông dân nghèo.

Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, trong tình hình Bắc Kỳ đang bị thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Mặc dù Henri Rivière cũng bị giết chết trong một trận đánh do Hoàng Tá Viêm làm tổng chỉ huy, Lưu Vĩnh Phúc trực tiếp cầm quân, các tỉnh Bắc Kỳ vẫn chưa thu hồi được, kinh đô Huế lại đứng trước nguy cơ bị tấn công. Và thật sự Thuận An, cửa ngõ của kinh đô, đã bị thất thủ, không lâu sau ngày vua Tự Đức mất. Do đó, cùng với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lần lượt lập rồi phế bỏ 2 vua Dục Đức, Hiệp Hòa (với lý do: một thân Pháp, “tả đạo”; một cấu kết với Pháp qua De Champeaux), nhằm mục đích đưa lên ngai vàng một vị vua yêu nước, quyết chiến với thực dân Pháp.

Vì sao vua Thành Thái xem Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường như gian thần?

Nguyễn Văn Tường – Tôn Thất Thuyết

Bấy giờ, quân Thanh đã sang đất Bắc Kỳ để phối hợp đánh Pháp, theo những lần thương nghị giữa Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình Đại Nam, và Đường Đình Canh, đại diện triều đình Đại Thanh (Trung Hoa), từ năm 1881. Nhưng trong thực tế, quân binh nhà Thanh lại mưu mô quy phục Lưu Vĩnh Phúc nhằm mục đích cùng Pháp chia đôi Bắc Kỳ (“Bắc Kỳ mỏ” và “Bắc Kỳ gạo”), lấy sông Hồng làm ranh giới.

Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thực hiện kế sách quân sự “Tọa sơn quan song hổ đấu”, thúc đẩy chiến tranh giữa Pháp và Hoa nổ ra, còn triều đình Huế đứng vào thế trung lập.

Nhưng triều đình nhà Thanh lại ký Hòa ước Thiên Tân với Pháp, cô lập hoàn toàn triều đình Huế. Triều đình Huế bị bắt buộc phải ký Hòa ước Giáp Thân (còn gọi là Hòa ước Patenôtre, 1884). Trong tình thế ấy, hai vị phụ chính đại thần vẫn cố gắng tiếp tục thúc đẩy chiến tranh Pháp – Hoa tiếp diễn, nhằm làm suy yếu lực lượng cả Pháp lẫn Hoa và tranh thủ thời gian để xây dựng cơ sở cho phong trào Cần Vương. Một loạt sơn phòng được củng cố, xây dựng, gồm cả “hậu lộ kinh đô”, Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị). Đích thân Nguyễn Văn Tường chỉ đạo xây dựng “kinh đô kháng chiến” hoặc “kinh đô tị địa” này.

Vua Kiến Phúc lại không may mắc bệnh, băng hà. Ngày 12 tháng 6 âm lịch, năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cùng Tôn nhân phủ, đình thần lập vua Hàm Nghi lên ngôi.

Hai vị phụ chính cùng các thành viên nhóm chủ chiến (Trần Xuân Soạn, Trương Văn Để…) đã có một vị minh quân để tiếp tục đương đầu với Pháp cũng như với bộ phận khá lớn giáo dân Thiên Chúa giáo được cho là bị các cố đạo phỉnh gạt, cầm súng, đào hào, tiếp tế lương thực cho Pháp.

Chính phủ Pháp quyết thực hiện xâm lược toàn bộ Đại Nam. De Courcy được cử sang với mục đích hoàn tất việc chiếm trọn Bắc Kỳ và bắt đầu tấn công chiếm cứ kinh đô Huế. Câu nói của De Courcy, hầu như ai cũng biết, “cần phải giải quyết việc này ở Huế”; và ông ta đã vạch kế hoạch bắt sống hoặc tiêu diệt nhóm chủ chiến triều đình Huế, đứng đầu là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ (ngày 5 tháng 7 năm 1885): Ngày 23 tháng 5 âm lịch, Ất Dậu (khuya ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885), tuy thi hành kế sách “không biết gì”, nhưng thực sự ông cùng Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Thực chất đó chỉ là đòn đánh trước để giành thế thượng phong, mặc dù biết rằng De Courcy cố dùng kế khích tướng, ép buộc quân Đại Nam phải tấn công trước (Đại Nam tấn công trước thì không nước nào trách được việc Pháp vi phạm các hòa ước).

Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi và Tam cung (thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Trung phi Vũ thị, Học phi Nguyễn thị) ra khỏi kinh thành; trong khi đó, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn vẫn cố kìm giữ sự tấn công của Pháp. Trần Xuân Soạn là vị tướng can trường, ông có nhiệm vụ rút quân cuối cùng.

Theo dự kiến mà nhóm chủ chiến đã vạch ra trong trường hợp kinh đô thất thủ (phương án 2), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lúc ấy liền quyết định đưa vua ra thành Quảng Trị, rồi sẽ đưa lên Tân Sở (tại huyện Thành Hóa, tức là Cam Lộ) để tránh đạn quân xâm lược Pháp, đồng thời phát Dụ Cần vương.

Trong lúc đó, một mặt được lệnh của bà Từ Dũ và vua Hàm Nghi, mặt khác là thực hiện phương án 2, ngăn cản Pháp truy kích xa giá, thực thi kế sách “kẻ ở người đi” (đàm và đánh), nên ông đã quay lại điều đình với Pháp. Nguyễn Văn Tường đã nhờ giám mục Caspar (có tên tiếng Việt là Lộc) của giáo đường Kim Long đưa sang Sứ quán để gặp tướng De Courcy (qua môi giới Caspar cũng là cách mà vào năm 1883, khi Thuận An thất thủ, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp đã thực hiện trong việc “cầu hòa”). Sau khi De Courcy buộc Nguyễn Văn Tường ban bố một vài lệnh lạc “hòa hảo giữa hai nước Việt – Pháp”, ông ta lại ra thời hạn cho Nguyễn Văn Tường: trong vòng hai tháng phải tìm cách để đưa vua Hàm Nghi và Tam cung về.

Nguyễn Văn Tường phái Phạm Hữu Dụng cầm sớ ra Quảng Trị, tâu xin rước vua về, nhưng Tôn Thất Thuyết cản sớ không cho vua biết. Tôn Thất Thuyết dặn Phạm Hữu Dụng: Nguyễn Văn Tường cố gắng thương thuyết với Pháp 2 điều là Pháp không được tiếp tục bức hiếp và phía ta cũng nên “đoàn kết” với Pháp. Nếu được như thế, mới có thể rước vua Hàm Nghi về lại kinh đô.

Nguyễn Văn Tường lại viết sớ vấn an Tam cung, và đệ trình về việc Tam cung tạm về Khiêm lăng (lăng Tự Đức) trong khi chờ vụ việc được giải quyết.

Về việc Tôn Thất Thuyết cản Phạm Hữu Dụng trực tiếp dâng sớ lên vua Hàm Nghi và cũng không cho vua biết: Đây có thể là một khía cạnh mâu thuẫn trong sách lược mà hai vị phụ chính đã bàn với nhau, và chắc hẳn đúng hơn là do tình huống mới nảy sinh, nên đó chỉ là một “động tác giả”, để thực hiện thủ thuật “hai mặt”, nhằm đối phó với Pháp. Nhưng ngay sau đó, bằng sự liên lạc mật, họ lại nhất trí vẫn duy trì kế sách “kẻ ở người đi”. Từ Tân Sở, Dụ Cần vương chính thức và duy nhất được ban bố, cùng thời điểm vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết gửi về Huế một bản sắc dụ cho Nguyễn Văn Tường. Mật dụ của vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày phát Dụ Cần vương, 2 tháng 6 năm Ất Dậu (13 tháng 6 năm 1885).

Sau đó ít hôm, vào ngày 7 tháng 5 năm Ất Dậu (18 tháng 7 năm 1885), vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) lại từ Tân Sở gửi một mật dụ về Huế cho hoàng tộc.

Trong hai tháng đó, Nguyễn Văn Tường hoàn toàn bị Pháp quản thúc ngay tại Sở Thương bạc, do một trung đội lính viễn chinh thuộc Pháp canh giữ, sĩ quan Schmitz chỉ huy. Tất cả mọi sắc dụ ký tên thái hoàng thái hậu Từ Dũ đều do Miên Định (chú ruột vua Tự Đức, hiện giữ chức nhiếp chính giám quốc) bàn bạc, thông qua bà Nguyễn Nhược Thị Bích (tác giả Hạnh Thục ca) chấp bút.

Tuy ở trong thế bị quản thúc nghiêm ngặt, Nguyễn Văn Tường vẫn đấu tranh hết sức gay gắt với nhóm người “đón gió xoay buồm”, trực diện là với Nguyễn Hữu Độ (người đã có ý theo Pháp từ 1873—theo ghi chép đã xuất bản của Jean Dupuis và theo Đại Nam thực lục chính biên), trong việc phong chức hàm cho ông ta với quyền hạn “phó vương” tại Bắc Kỳ, thành lập Nha Kinh lược tại đấy, mà thực chất là mất hẳn Bắc Kỳ vào tay Pháp và các cố đạo như Puginier.

Trong khi đó, phong trào “Cần vương, bình Tây, sát tả đạo” đã bùng nổ ra khắp cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh tả kỳ (phía trái cửa ngõ vào kinh đô, tức là phía Nam). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính Nguyễn Văn Tường đã lãnh nhiệm vụ chỉ đạo tổng quát ở miền đất ấy, trong khi Tôn Thất Thuyết phụ trách các tỉnh hữu kỳ (phía Bắc) (xem cáo thị khi giặc Pháp bắt Nguyễn Văn Tường bên dưới).

Lưu đày và cái chết nơi biệt xứ (1885–1886): Hết hạn hai tháng, đúng vào ngày 27 tháng 7 Ất Dậu (5 tháng 9 năm 1885), Pháp ra lệnh bắt Nguyễn Văn Tường. De Courcy chỉ thị De Champeaux công khai cáo thị khắp nước. Quốc sử quán ghi nhận như sau:

Đô thống Đại Pháp là De Courcy bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định”.

Không những người Pháp ở Gia Định đổ một loại hóa chất gây cháy bỏng vào miệng Nguyễn Văn Tường, khi tra tấn (để khỏi la hét, gào rú), De Courcy còn đánh điện tín cho Caffort, chúa đảo Côn Đảo: “Tầm quan trọng của những tù nhân chính trị này đòi hỏi họ phải được giám sát nghiêm ngặt với bất cứ giá nào”; trong đó, Nguyễn Văn Tường là “kẻ thù nguy hiểm nhất” đối với Pháp.

Khi ông và hai người bạn tù của ông đã bị giam giữ tại Côn Đảo, chính phủ Pháp lại chuẩn bị lưu đày họ tận Tahiti; bấy giờ, triều Đồng Khánh, dưới sự chỉ đạo của De Courcy, đã “xử án vắng mặt” nhóm chủ chiến triều đình Huế, với nội dung chính là hành trạng của họ từ ngày 5 tháng 7 đến 5 tháng 9 năm 1885. Lúc khoảng 4 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất vì bệnh ung thư cổ họng. Sau một vài tháng quàn giữ, di thể ông được Tôn Thất Đính đưa về Đại Nam.

Quan Phụ chính Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886) | Flickr

Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường

Không chỉ giỏi tài kinh bang tế thế, Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – vị quan Phụ chánh đại thần dưới triều Nguyễn còn là nhân vật cả cuộc đời gắn liền với một giai đoạn lịch sử vẫn còn nhiều tranh cãi.

Bằng các tư liệu khả tín nhất từ Việt Nam, Pháp và Mỹ, GS Nguyễn Quốc Trị – hậu duệ đời thứ ba đã sưu tầm, đối chiếu minh oan cho cụ cố Nguyễn Văn Tường, cùng một số vua quan nhà Nguyễn, qua bộ sử liệu đồ sộ gần 2,000 trang (2 tập): Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của Nhà Nguyễn, do Khai Tâm và NXB Tổng hợp TP.HCM vừa ấn hành.

Đại quan từng mưu tiếm ngôi vua?: Mặc dù sử phổ thông rất ít nói về giai đoạn đầu của cuộc đời làm quan của Kỳ Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường nhưng theo GS Nguyễn Quốc Trị: “Ông đỗ cử nhân năm Canh Tuất, Tự Đức thứ ba (1850) và có cuộc đời làm quan dài trên 30 năm, bắt đầu với một chức Học quan, rồi Huấn đạo huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi), đến Bang biện huyện Thành Hóa (Quảng Trị), Hình bộ Thượng thư, kiêm cơ mật viện Đại thần và quản lý Thương bạc viện…, cho đến ngày đi đày ở Tahiti vào tháng 9/1885 vẫn luôn tận tụy làm hết bổn phận với vua, với nước”.

Từng dám phế truất Hoàng trưởng tử Dục Đức, là con nuôi được vua Tự Đức chỉ định lên kế vị, ông cùng Phụ chánh Tôn Thất Thuyết và thân phiên đình thần tôn lập hoàng thân em út vua Tự Đức lên ngôi là vua Hiệp Hòa. Tuy nhiên cuộc đời Kỳ Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường lại gặp phải nhiều chuyện “tai bay vạ gió”, tin xuyên tạc, thêu dệt một cách cố ý do cơ quan mật thám Pháp trong những chiến dịch tuyên truyền đưa ra.

Đầu tiên ông bị lầm lẫn với một vị quan trùng tên là Nguyễn Luận, trước có tên là Nguyễn Văn Tường đổi lại. Người này khoảng gần cuối năm 1864 đã bị kết án về tội nhũng lạm … mà tai tiếng ông Tường phải mang thay.

Xung quanh nghi án Nguyễn Văn Tường loại trừ các vua nhà Nguyễn để lên ngôi, GS Nguyễn Quốc Trị cho biết: “Ông Tường và ông Thuyết lúc làm Phụ chánh bị sử sách tố cáo là đã lộng quyền lập lên ba vị vua chỉ trong thời gian 4 tháng, rồi giết hại cả ba vị là Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Hai câu đối nặc danh truyền tụng để mạt sát hai ông quyền thần, đó là: “Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường”.

Tác giả sách đã dẫn lý giải: “Nhận thấy hai ông Phụ chánh ông Tường và ông Thuyết lãnh đạo phe chống Pháp loại các vua thân Pháp là Dục Đức và Hiệp Hòa, phe người Pháp thuộc địa và Việt thân Pháp tung tin đồn rằng hai ông đã giết vua Kiến Phúc để tranh giành ngôi, rằng ông Tường có âm mưu cho con mình là anh rể của vua Kiến Phúc lên thay vua”.

Trong khi đó, căn cứ điện tín đề ngày 15/8/1884 từ Thuận An, gửi về Bộ Hải quân và thuộc địa, nói rất rõ về bệnh tình của vua: “Sức khỏe của vua An Nam đã gây nên những mối lo ngại hết sức quan trọng. Vị vua mắc bệnh ban đỏ, đã trải qua một cơn biến rất nặng vào một trong những đêm vừa qua. Trong một thời gian, ngài được coi như là đã chết”.

Tự quân Dục Đức, dù đã bị phế truất và giáng chức vì tội bất hiếu và sao sai di chiếu của vua Tự Đức nhưng vẫn tiếp tục mật thông với Pháp để giành lại ngôi báu, trở thành mối đe dọa cho vua Hàm Nghi nên bị giam giữ ở lao phủ Thừa Thiên rồi bị chết một cách mờ ám. Còn ai đã giết vua Hiệp Hòa, GS Nguyễn Quốc Trị viết: “Trong bốn gian hùng: Tường, Viêm (Hoàng Tá Viêm), Khiêm và Thuyết, chỉ có một mình Ông Ích Khiêm, là người đã đích thân giết vua Hiệp Hòa, được Quốc sử quán vinh danh trong hàng ngũ công thần nhà Nguyễn và tiểu sử của ông được ghi trong Đại Nam chính biên Liệt truyện, trong đó có kể chuyện ông cho vua Hiệp Hòa uống thuốc độc”.

Đến kết cục buồn: Sau khi sách lược “hòa để thủ, thủ để mưu chiến” thất bại, quan Phụ chánh Nguyễn Văn Tường bị đi đày ở Tahiti và mất tại đó vào ngày 30/7/1886, chỉ hơn 1 năm sau khi vua Hàm Nghi rời Huế và kinh thành thất thủ: “Ông Phạm Thận Duật, một thành viên của Cơ mật viện cũng bị đi đày ở Úc châu nhưng giữa đường đã chết trên tàu La Dives ngày 29.11.1886, với thân xác bị liệng xuống biển”, sách Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của Nhà Nguyễn tiết lộ. Số phận ông Tôn Thất Thuyết cũng không sáng sủa gì hơn: Vài tháng sau khi ông Tường bị đưa đi đày, ông Thuyết để hai con ở lại phò vua Hàm Nghi … ra Bắc kỳ để phối hợp và điều khiển cuộc kháng chiến Cần Vương.

Rồi sang Tàu liên lạc tìm viện trợ cho triều đình nhưng không thành. “Sống trong tình trạng giam lỏng, lưu đày như vậy đến năm 1913 thì mất, thọ 74 tuổi. Hai con của ông ở lại với vua Hàm Nghi đã chết nhân khi vua bị Pháp bắt. Mẹ và vợ ông Thuyết bị bệnh chết trên đường lên sơn phòng với vua”, sách kể.

Bộ sách không chỉ là một bản tiểu sử mở rộng của một vị tiền bối mà là công trình đánh giá lại hầu như toàn bộ lịch sử VN trong hơn một trăm năm triều Nguyễn, nhấn mạnh vào kế sách chiến hòa khi đối diện với nguy cơ từ bên ngoài”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính

“Đầu tháng 2/1887, quan tài đựng thi hài ông Tường được tàu Bourayne mang về Đà Nẵng, được nhà cầm quyền Pháp cho đặt tạm ở một ngôi chùa xưa, rồi sau đó âm thầm chở về quê hương chôn cất ở chánh quán, xứ Mậu Hồng, phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Vài năm sau, cải táng lại thì thấy nét mặt và áo mũ y như khi còn sống”, GS Nguyễn Quốc Trị kể thêm về cụ cố Nguyễn Văn Tường của ông.

Vào ngày 3 tháng 6 năm 2007, Hội Khoa học Lịch sử của tỉnh Thừa Thiên – Huế đã đưa ra đề nghị “Tặng bia cho các nhân vật lịch sử” để ghi nhận công lao của các nhân vật lịch sử tại Việt Nam, trong số đó có ông Nguyễn Văn Tường.

Theo thông tin từ trang web của tỉnh Quảng Trị:

Bia Kỳ Vỹ tướng quân Nguyễn Văn Tường

DÒNG HỌ NGUYỄN KHOA VÀ DÒNG HỌ NGUYỄN VĂN TƯỜNG

Trong khi viết bài “Viết về bên ngoại” thì có một chi tiết mang tính cách lịch sữ: Cụ bà Nguyễn Khoa Hoằng là Nguyễn thị Khê, con gái của cụ Nguyễn Văn Tường, người Quảng Trị. Thời vua Tự Đức và các triều kế tiếp, cụ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là 2 vị cận thần, khuynh loát cả một giang sơn. Cụ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) là sui gia với cụ Nguyễn Khoa Luận (1834 – 1900), ông nội của cụ Nguyễn Khoa Túc. Lý do nào để 2 Cụ kết tình thông gia không nghe kể lại, chỉ biết ngài NK Luận là vị tu hành, bỏ chức Án Sát đi tu, còn cụ Nguyễn văn Tường thì chọc trời khuấy nuớc, mưu lược hơn người. Pháp bắt ông đem đày ra đảo quốc Phi Châu. Các con phải đổi họ Nguyễn Văn thành Nguyễn Quốc như giáo sư tiến sĩ Viện Trưởng QGHC/VNCH Nguyễn Quốc Trị (Maryland) và ông Nguyễn Văn Đãi, QGHC khóa 1, Đại biểu Chính phủ Vùng 1 Chiến thuật, bị Cộng Sản bắt ra Bắc trong dịp Tết Mậu Thân, đến năm 1980 mới tha về.

Khi viết về dòng họ Nguyễn Khoa và dòng họ Nguyễn Văn Tường, tác giả chỉ thâu hẹp về trực hệ từ đời cụ Nguyễn Khoa Hoằng (đời thứ 10) là con thứ 2 của ngài Khoa Luận. Chánh thất của cụ Nguyễn Khoa Hoằng là bà Nguyễn Thị Khê (con ông Quận công Nguyễn Văn Tường, An Cư, Quảng Trị). Như vậy, tướng Nguyễn Khoa Nam là chắt ngoại của ông Nguyễn Văn Tường. Đến đời thân phụ, tướng Nam lại được thừa hưởng di sản của thân mẫu là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn thuộc dòng Tuy Lý Vương.


Nguyễn Khoa Luận
                       —>  Nguyễn Khoa Hoằng 
Nguyễn Văn Tường                  +           —> Nguyễn Khoa Túc
                                    Nguyễn Thị Khê                     +  —> Nguyễn Khoa Nam      

                                                             Công Tôn Nữ Mộc Cẩn 
                                                           
  3/10    Nguyễn Khoa Hoằng (Con thứ 2 của ngài Khoa Luận)
Chức tước Hàn lâm viện Thừa biện
Sanh 22 tháng 12 năm Ất Sửu 1865
Mất     15 tháng 2 năm Tân Dậu 1921
Thọ 57 tuổi
Táng   Mộ táng tại đất Nội tán, vườn chánh
Vợ 3 bà – Con: 7 trai và 11 gái
Chánh thất             Nguyễn Thị Khê (con ông Quận công Nguyễn Văn Tường, An cư, Quảng Trị)
Sanh <KB>
Mất 4 tháng 4 năm Nhâm Thân 1902
Thọ <KB>
Táng Mộ táng tại đất Nội tán, khe trong
Con trai 1. NK Túc   2. NK Trọng  3. NK Tuất (mất sớm)   4. NK Dậu (mất sớm)
Con gái 5. NK Diệu Tích  6. NK Diệu Ngân  7. NK Diệu Hoàng  8. Diệu Đào  9. NK Diệu Cảnh 10. NK Diệu Dậu (mất sớm).

Như vậy, cụ Nguyễn Khoa Túc có nhiều người em cùng cha khác mẹ nhưng những người này không có liên hệ với dòng của cụ Nguyễn Văn Tường.

TUY LÝ VƯƠNG (1820 – 1897)

Tuy Lý Vương trước có tên là Nguyễn Phúc Thư, sau được ban tên Nguyễn Phúc Miên Trinh, sinh ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (3 tháng 2 năm 1820) tại viện sau Thanh Hòa điện. Ông là con trai thứ 11 của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng, mẹ ông là Tiệp dư Lê Thị Ái, người An Triền (Phong Điền, Thừa Thiên). Vốn thông minh, hiếu học, tính nết đôn hậu lại được mẹ và thầy Thân Văn Quyền dạy dỗ chu đáo, nên ông sớm nổi tiếng là người uyên bác, sáng tác thơ giỏi và thạo cả nghề thuốc.

Năm 1839, Miên Trinh được phong là Tuy Quốc công, cho lập phủ riêng gọi là Tĩnh Phố, ở bên cạnh Ký Thưởng viên của người anh khác mẹ là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Năm Tự Đức thứ 4 (1851), Hoàng đế bắt đầu lập Tôn Học đường, cử ông giữ chức Đổng sự. Năm 1854, ông được phong Tuy Lý công.

Năm 1865, vua Tự Đức chuẩn cho ông kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Nhân, nhưng vì mẹ mất, ông xin từ để cư tang, đến năm sau mới tựu chức, rồi thăng Tông Nhân Phủ Tả Tông Nhân (1871). Năm 1878, ông được phong làm Tuy Lý Quận vương, rồi thăng làm Tông Nhân Phủ Hữu Tông (1882).

Năm Quý Mùi (1883), Tự Đức lâm bệnh nặng, Miên Trinh có vào Y viện hầu thuốc, nhưng không công hiệu, không lâu sau thì Tự Đức giá băng mất. Ông được tin cẩn và được Tự Đức di chiếu cùng Thọ Xuân Vương giúp đỡ việc triều chính, trong thời gian này ông được phong tước Tuy Lý vương. Sách Vua Minh Mạng với Thái y viện kể:

“Bấy giờ, trong Hội đồng phụ chính, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm nhiều quyền hành, lại đứng đầu phái chủ chiến, tích cực chống thực dân Pháp. Họ thực hiện các cuộc phế lập để chọn ông vua đứng về phe mình. Trong cuộc phế lập ấy, Lãng Quốc công Hồng Dật lên ngôi, cải nguyên Hiệp Hòa, và Miên Trinh được tấn phong Tuy Lý Vương … Tuy có lòng yêu nước thương dân, nhưng vì chịu sự chi phối của hệ ý thức phong kiến (lấy quyền lợi triều đình, hoàng tộc làm đầu) nên Miên Trinh ngấm ngầm chống đối Tường và Thuyết. Rồi Hồng Sâm, con trai của Miên Trinh, mưu cùng vua Hiệp Hòa, nhờ tay thực dân Pháp để trừ hai người ấy. Việc bại lộ, cả vua và Hồng Sâm đều bị giết. Miên Trinh sợ hãi, lánh đến sứ quán Thương Bạc xin tá túc, nhưng Tham biện Nguyễn Cư không cho. Cùng đường, ông đem cả gia đình xuống Thuận An xin tị nạn trên tàu Pháp do Picard Destelan chỉ huy. Mười ngày sau (30 tháng 11 năm 1883), mặc dù được Khâm sứ De Champeaux che chở, nhưng vì Tôn Thất Thuyết đòi, nên Pháp trao trả ông cho triều đình Huế. Ông bị Tôn Thất Thuyết cách hết chức, giáng xuống tước Tuy Lý Huyện công, đày vào Quảng Ngãi (1884). Mãi đến khi Đồng Khánh lên ngôi (1886), ông mới được tha về và cho khôi phục tước Tuy Lý công”.

Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, ông được cử làm Đệ nhất phụ chính thân thần, kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Tả Tôn Chính, tấn thăng Tuy Lý quận vương như trước. Năm 1894, tháng 7, vì có công lao lớn, ông lại được tấn phong làm Tuy Lý vương.

Năm 1897, vì tuổi già, ông xin về nghỉ, chẳng bao lâu thì bị bệnh mất ngày 24 tháng 10 năm Đinh Dậu (18 tháng 11 năm 1897), hưởng thọ 77 tuổi. Nghe tin ông mất, Thành Thái cấp một ngàn quan tiền lo việc tang và ban thụy là Đoan Cung. Mộ Tuy Lý Vương ở cạnh mộ mẹ, nay thuộc phường Phường Đúc, sát bên đường Bùi Thị Xuân, thành phố Huế.

Như vậy, Tướng Nguyễn Khoa Nam và ông Nguyễn Khoa Phước được hưởng di sản của 3 dòng họ lớn ở Huế trong lịch sữ Việt Nam cận đại là dòng họ Nguyễn Khoa, Nguyễn Văn Tường và Tuy Lý Vương.

PHỦ KIÊN THÁI VƯƠNG – Người làm cha 3... - Hue, truly Vietnam | Facebook

Phủ Tuy Lý

LỜI KẾT

Sau bài viết “Trực hệ của Tướng Nam”, tôi nghĩ rằng đây là bài cuối tôi viết về gia đình bên ngoại. Trong lúc tổng hợp cuốn sách về Tướng Nguyễn Khoa Nam, tôi không liên lạc nhiều với cậu Phước. Tôi tôn trọng niềm đau của mổi người trong gia đình. Gần đây, khi tái lập Website Tranh Chấp Biển Đông, cậu có gọi qua, cho biết có lên mạng, khá vui khi thấy được lan truyền khá nhiều nước trên thế giới. Cậu năm nay tuổi đã khá lớn, sức khỏe cũng giảm đi, tôi biết Cậu phải đi lọc thận mổi tuần 2, 3 lần. Cậu bảo tôi nên viết một bài về tiểu sử của ông ngoại, Cậu sẽ cung cấp chi tiết. Lúc đầu, tôi định lấy tựa đề là “Tiểu sử cụ Nguyễn Khoa Túc” nhưng chi tiết Cậu gởi qua ngày càng nhiều nên tôi sữa tựa bài viết lại là “Viết về bên ngoại”.

Gần đây, Cậu lại gọi qua, nói về sự thông gia của gia đình cụ Nguyễn Văn Tường và cụ Nguyễn Khoa Luận cũng như phủ Tuy Lý bên ngoại và gợi ý tôi viết thêm một bài nữa. Đây là niềm vui mà tôi luôn mong mỏi nhưng để sự chủ động cho Cậu.

Mong Cậu có được niềm vui khi nói về những người thân trong gia đình.

Sưu tầm: Nguyễn Mạnh Trí – Cựu Trung tá – Hải Quân VNCH – Cháu ngoại đầu của Cụ Nguyễn Khoa Túc – Cháu gọi Tướng Khoa Nam bằng Cậu.

THAM KHẢO

  1. Gia phả Dòng họ Nguyễn Khoa
  2. Nguyễn Văn Tường – Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
  3. Tuy Lý Vương – Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
  4. Bài viết “Bộ sử liệu minh oan cho Kỳ Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường” đăng trên mạng Lê Công Sơn lecongsontn@gmail.com
  5. Bài viết “Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễncủa GS Nguyễn Quốc Trị.

*****

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *